Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Văn pháp tiếng Việt
và tiến trình viết văn


Khải Chính Phạm Kim Thư



I. Dẫn Nhập

1. Văn Tự Của Người Việt

Ở bất cứ nơi nào, hễ có con người là có tiếng nói riêng của giống người đó. Tiếng nói của người Việt đã có từ hồi con người Việt xuất hiện trên trái đất này.

Tiếng nói có trước văn tự, ngữ pháp, văn phạm, và văn pháp. Lời nói tự nó đã có ngữ pháp, văn pháp, và văn phạm nếu lời nói đó có ý nghĩa mạch lạc và làm cho người nghe hiểu rõ ràng. Tuy nhiên, chữ viết cùng với ngữ pháp, văn phạm, và văn pháp được phát minh là để dùng trong việc giáo dục, cai trị, liên lạc, và lưu giữ tư tưởng cùng các phát minh của tiền nhân cho hậu thế.

Tiếng nói hay lời nói được gọi là ngôn ngữ. "Lời viết" hay chữ viết gọi là văn tự. Về văn tự, từ trước tới nay dân tộc ta đã dùng:

Chữ Nho, tức là lối chữ viết của người Trung Hoa, được dùng trong thời kỳ quân Tàu đô hộ nước ta, Bắc Thuộc Thời Ðại, từ năm 207 (trước Tây lịch, đời Triệu Vũ Vương) cho đến năm 939 sau Tây lịch (đời Ngũ Quí).
Chữ Nho còn được thịnh hành suốt trong thời kỳ Tự Chủ Thời Ðại nữa (939-1802). Trong khoảng hơn 9 thế kỷ ấy, các triều đình nước ta vẫn lấy chữ Nho làm quốc gia văn tự. Trong dân gian, các khế ước, chúc thư, và các sổ sách đều dùng chữ Nho cả.

Khi quân Tàu sang chiếm nước ta, dân ta còn ở trong tình trạng bán khai nên đã chịu ảnh hưởng của người Tàu từ chính trị, xã hội, giáo dục, luân lý, tôn giáo, đến phong tục. Dân ta học chữ Nho, theo đạo Nho, và hấp thụ tư tưởng cùng học thuật của Tàu.

Chữ Quốc Âm hay Chữ Nôm là thứ chữ được tiền nhân ta đặt ra bằng cách biến chế từ chữ Nho, dùng nguyên chữ Nho, hoặc ghép các bộ phận của chữ Nho lại để đọc theo tiếng nói của người Việt Nam. Chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ VIII, đời Phùng Hưng (Bố Cái Ðại Vương) và đến cuối thế kỷ thứ XIII, thời ông Hàn Thuyên (Nguyễn Thuyên), đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), người ta đã dùng chữ nôm để viết văn. Rồi tiếp theo đó là đến thời Nguyễn Ánh hồi còn xưng vương (1778-1802), chưa bình định xong Nam Bắc, các chỉ dụ, sắc lệnh, và công văn được viết toàn bằng chữ Nôm.

Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ đã được các giáo sĩ người Âu sang truyền giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ XVII đặt ra bằng cách lấy các mẫu tự (chữ cái) La Mã để phiên âm tiếng nói của người Việt Nam. Mục đích của việc sáng tác ra chữ quốc ngữ là để đáp ứng nhu cầu của việc dịch sách và soạn sách về đạo Thiên Chúa cho các con chiên đọc.

Người có công lớn nhất trong việc sáng tác ra chữ quốc ngữ là ông Alexandre De Rhodes vì vào năm 1651 ông đã soạn ra cuốn tự điển, Dictionarium Annamiticum, Lusitanum, et Latinum (Tự Ðiển An Nam, Bồ Ðào Nha, và La Tinh) để giúp đời sau có sách để tra cứu.

2. Ðịnh Nghĩa về Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ, Quốc Âm, Việt Ngữ, Việt Văn, Văn Tự, Ngữ Pháp, Văn Pháp, và Văn Phạm

a. Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ, Quốc Âm, Việt Ngữ, và Việt Văn

Ngôn Ngữ là âm thanh có ý nghĩa và hệ thống mà loài người dùng để liên lạc, cảm thông, và diễn đạt tư tưởng với nhau.

Tộc Ngữ là ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc.

Quốc Âm là tiếng của một nước.

Việt Ngữ là tộc ngữ, tiếng nói, hay "lời nói" của dân tộc Việt.

Việt Văn là "Lời viết" hay văn chương của ngưòi Việt.

b. Ngôn Ngữ và Văn Tự

Nói ra lời là Ngôn Ngữ, viết ra thành chữ là Văn Tự. Như trên đã nói, loài người có tiếng nói trước trước khi có văn tự. Tuy nhiên, vì ngôn ngữ là chính và văn tự là phụ nên người ta dùng ngôn ngữ để chỉ cả "lời nói" lẫn "lời viết." Trong khi đó Văn Tự dùng để chỉ "lời viết" mà thôi.


c. Ngữ Pháp

Ngữ Pháp là phép xếp đặt "lời nói" và "lời viết" cho đúng. Ðiều này có nghĩa là Ngữ Pháp áp dụng cho cả lời nói thường ngày và lời viết hay văn chương.


d. Văn Pháp và Văn Phạm

Văn Pháp và Văn Phạm nói chung là khuôn phép viết văn hay làm văn.

Văn Pháp (syntax) là cách viết câu văn còn gọi là cú pháp, tức là cách phối hợp những chữ theo một quy luật để thành một câu văn. Văn pháp tiếng Việt là phép viết văn hay làm văn bằng tiếng Việt.

Văn Phạm (gammar) là mẹo luật hay cách viết một thứ tiếng nói.


3. Yếu Tố Chính Trong Văn Pháp

Các yếu tố chung của văn pháp tiếng Việt hay bất kỳ tiếng nước nào: lời văn, cú pháp, dấu chấm câu, nội dung, và chủ đề.

Lời văn phải chân thành, trong sáng, ngắn gọn, mạch lạc, uyển chuyển, nhẹ nhàng, trang nhã, lịch sự, và có ý nghĩa để giúp người đọc cảm thấy, nghe được, cũng như hình dung ra những gì nhà văn muốn viết.

Cú pháp là nói về phép tắc dùng tiếng để đặt câu văn cho chỉnh, tức là văn phải thành cú.

Dấu chấm câu phải đúng cách.

Nội dung bài viết phải có tính chuyên chở tư tưởng để thuyết phục được độc giả (văn dĩ tải đạo).

Chủ đề là vấn đề chính mà tác giả muốn trình bày trong một bài văn hay bài thơ. Một bài văn, một bài thơ, cũng như một tác phẩm phải có chủ đề, bố cục, và phân đoạn rõ ràng.

II. Tiến Trình Viết Văn

Muốn viết văn cho hay, nhà văn phải kiên nhẫn, có nghị lực, biết tập trung tư tưởng để hoạch định và suy nghĩ về công việc sáng tác.

Tiến trình viết văn gồm 5 giai đoạn: chuẩn bị viết, viết bản thảo, sửa bản thảo, đọc lại bản thảo lần cuối, và liệt kê tài liệu tham khảo.


1. Chuẩn Bị Cho Việc Viết Văn

a. Chọn và giới hạn đề tài

Chọn đề tài thuộc phạm vi mình đã có kinh nghiệm. Những gì nhà văn đã thấy, đã đọc, và đã nghe là điều cốt yếu giúp cho việc viết văn thành công. Ðiều này có nghĩa là nhà văn phải có kinh nghiệm sống về những điều mình muốn viết thì tác phẩm mới có giá trị. Trong những kinh nghiệm sống này, nhà văn cần chọn những gì mình thích thú, quan tâm, và tin tưởng nhất để viết.

Việc giới hạn đề tài rất là cần thiết. Nhà văn cần giới hạn đề tài để có thể tập trung vào phần mà mình có sở trường để viết cho đầy đủ. Nhà văn có giới hạn đề tài để viết thì đọc giả mới dễ theo dõi và mới hiểu được đại ý của tác phẩm.

b. Ấn định mục đích cho bài hay tác phẩm mình định viết

Mục đích tức là lý do khiến mình cầm bút viết, chẳnh hạn như viết để thuyết phục độc giả về những gì mình sắp viết, viết để mua vui cho độc giả, hay viết để làm cho độc giả nghe thấy, cảm thấy, hay nhìn thấy những gì mình định viết ra. Ðể đạt được mục đích khác nhau, nhà văn cần áp dụng lối viết khác nhau.


c. Viết Cho Thành Phần Ðộc Giả Nào?

Trước khi viết, nhà văn phải biết mình định viết cho thành phần độc giả nào, chẳng hạn như thành phần người lớn, thanh niên, trẻ em, quần chúng, những người mới vào nghề, hay các chuyên gia. Ðối với mỗi đối tượng, nhà văn phải dùng cách viết và cách trình bày cùng chi tiết và ngôn ngữ khác nhau.

Nhà thơ không có độc giả vì nhà thơ thường chỉ đối thoại với một người hay cảnh vật mà thôi. Nhà văn thì khác, nhà văn cần độc giả nên phải luôn luôn đặt địa vị mình vào địa vị độc giả mỗi khi viết văn. Phải hình dung ra nét mặc của độc giả của mình có tỏ ra hiểu ý mình hay chán nản khi đọc tới những dòng mình đang viết. Có như thế nhà văn mới mong thành công trong việc viết văn được.


d. Thu thập tài liệu giúp cho việc viết văn

Khi thu thập các tài liệu, nhà văn phải nhớ mục đích và thành phần độc giả để gom góp tài liệu cho thích hợp.

Viết văn là để thuyết phục độc giả tin những điều mình viết. Chính vì thế, ngoài tài liệu trong sách báo và thư từ liên lạc với bằng hữu, nhà văn còn phải phỏng vấn hay hỏi ý kiến từ những người có thẩm quyền hay thảo luận với những người có kinh nghiệm về đề tài mình định viết. Nhà văn còn phải thu thập tài liệu bằng cách ghi chép ngay vào sổ bất cứ những gì hiện đến trong óc hay những gì quan sát và đọc được về đề tài mình định viết. Có khi nhà văn còn phải chụp hình, thu băng, hay quay phim các diễn tiến sự việc để làm tài liệu viết văn.

Muốn viết cho có kết quả, nhà văn phải đọc thật nhiều. Tôi còn nhớ được một câu của nhà văn kiêm nhà ngôn ngữ học và thi sĩ Samuel Johnson (1709-1784) trong một tác phẩm nào đó: "Ðể viết một cuốn sách, nhà văn phải tham khảo một nửa số sách có trong thư viện" (The greater part of a writer's time is spent in reading. A man will turn over half a library to make one book).


e. Chọn lựa và sắp đặt tài liệu cho hợp với nội dung của tác phẩm

Khi có đủ tài liệu, nhà văn cần chọn những tài liệu thích hợp nhất rồi xếp theo từng loại. Những tài liệu có cùng liên hệ về nội dung phải được xết thành từng nhóm. Những sự kiện xảy ra nên xếp theo thứ tự thời gian và nơi chốn.


2. Viết Bản Thảo (Nháp)

Sau khi việc chuẩn bị đã hoàn tất, nhà văn phải bắt đầu viết ngay và viết nhanh vì trong khi viết ý tưởng sẽ nảy sinh và tuôn ra dào dạt.

Những người có kinh nghiệm viết văn thấy việc bắt đầu viết mới là việc khó khăn. Khi đã bắt đầu viết thì mọi sự sẽ tiến triển tốt đẹp. Muốn đạt được việc này, chúng ta cứ viết, đừng để ý tới văn phạm hay văn pháp.

Hãy cố gắng trình bày tư tưởng theo tài liệu đã sưu tầm và ghi chép. Hãy viết theo bố cục đã định và theo mục đích đã vạch ra.

Trong khi viết, ta sẽ có những ý tưởng mới xuất hiện. Có khi ta viết đi viết lại một đoạn văn nhiều lần mới ưng ý.

Khi viết, ta nên viết tự nhiên theo lối hành văn của mình, đừng cố bắt chước cách viết của người khác, dùng chữ giản dị dễ hiểu giống như khi mình nói chuyện với bạn bè, và nên dùng các câu ngắn gọn. Trong mỗi đoạn văn, ta nên diễn đạt một ý tưởng. Ta nên diễn đạt tóm tắt ý tưởng này vào trong một câu gọi là câu chủ đề, rồi sau đó, ta diễn giải ý tưởng này cho rõ.

Nếu cần, ta nên dùng thí dụ để làm sáng tỏ điều mình muốn trình bày.

Cuối cùng, ta phải hình dung ra những thắc mắc của độc giả về những gì ta đang viết. Có như thế bài viết của ta mới rõ ràng và súc tích.

Ngày nay, ta viết văn bằng máy vi tính nên việc viết văn lại trở nên rất dễ dàng. Ta có thể vừa viết vừa sửa bài một cách nhanh chóng. Chúng ta nên viết liên tục đến khi xong tác phẩm rồi cố gắng đọc lại ngay để sửa sơ qua lần đầu. Sau đó, ta nên nghỉ một lúc trước khi sửa lần thứ hai.


3. Sửa Bản Thảo

Bản thảo đầu tiên là bản có rất nhiều lỗi. Ta nên so sánh những điều đã viết với tài liệu đã sưu tầm được để xem có chính xác không.

Trong kỳ sửa lần này, ta chưa cần phải để ý đến văn phạm và văn pháp mà phải để ý đến nội dung bài viết. Không chú tâm về văn phạm và văn pháp, nhưng nếu thấy các lỗi về văn phạm và văn pháp ta vẫn phải sửa ngay.

Ta cần gọt giũa, diễn giải thêm, và làm trong sáng bài viết. Sửa đi sửa lại nhiều lần càng tốt. Ðã có nhiều nhà văn đã sửa tác phẩm của mình đến hàng chục lần mới hoàn tất. Ta cần tự hỏi những câu hỏi sau để tìm ra các khuyết điểm:

Tác phẩm đã đáp ứng mục đích đề ra hay không?

Nội dung có thích hợp với loại độc giả ta nhắm tới hay không?

Bài viết có gắn liền với chủ đề hay không?

Có ý nào dư thừa không? Nếu có thể cắt bớt đoạn văn mà bài vẫn đủ ý thì nên cắt bớt. Những gì viết ra phải cần thiết, tránh những điều dư thừa và lập lại một cách vô ích.

Lập luận có vững không?

Sự sắp xếp ý tưởng có hợp lý hay không?

Các ý trình bày có trôi chảy, rõ ràng, dễ hiểu, và hợp lý không?

Việc dùng chữ có chính xác không?

Và quan trọng hơn hết là bài viết có hấp dẫn, lôi cuốn, và chinh phục được độc giả không?

Ta nên nhớ viết là trình bày tư tưởng một cách hữu lý, mạch lạc, hẫm dẫn, và thuyết phục.

Muốn chắc chắn một tác phẩm được hoàn hảo, ta cần phải:

Ðọc to toàn bài của mình nếu có thệ Khi đọc to, ta sẽ dễ thấy những điều sai sót để sửa.

Nhờ người khác đọc và cho ý kiến, chẳng hạn như nếu bài viết nhắm vào thanh niên, ta nên nhờ một thanh niên đọc và cho ý kiến.

Viết rồi để đó trong một thời gian rồi lấy ra đọc lại, ta lại thấy có nhiều điều cần phải sửa.

4. Ðọc Lại Bản Thảo Lần Cuối

Việc sửa bản thảo đã xong, ta viết lại và cho in ra để đọc lần cuối. Lần này ta chú trọng về mặt văn phạm và văn pháp. Ðiều cần nhất là xem cú pháp có chỉnh không? Dấu chấm câu có đúng cách không? Các chữ viết hoa và chính tả đã đúng chưa?

Sau khi sửa, ta đọc lại để kiểm soát từng lỗi đã mắc phải để chắc chắn là chúng ta đã sửa hết các chỗ sai. Mục đích lần sửa kỳ này là làm cho bài viết của ta rõ ràng và đúng cách.

Nếu có thể, ta đem bài đã viết để trình bày trước công chúng, để dạy học, hay thảo luận với bạn bè. Việc này sẽ giúp ta thấy các điều thiếu sót. Có như thế ta mới cải tiến các khuyết điểm trước khi cho xuất bản.

Ðã viết văn ai cũng mắc phải sai lầm kể cả những nhà văn đã thành danh và các nhà văn vào bậc thầy. Có một điều là nếu ta cẩn trọng trong khi viết văn và sửa đi sửa lại bài sau khi viết thì bài viết của ta sẽ có ít sai sót chứ chưa hẳn đã hoàn hảo được. Muốn hoàn hảo, ta phải nhờ người khác góp ý và sửa bài cho ta.


5. Liệt Kê Tài Liệu Tham Khảo

Sau khi hoàn thành bài viết hay một tác phẩm, ta phải liệt kê các tài liệu tham khảo ở ngay cuối mỗi bài hay cuối mỗi tác phẩm. Ðây là điều bắt buộc phải làm đối với các loại bài hay tác phẩm có tính cách nghiên cứu và sưu tầm.

Tài liệu tham khảo giúp ta rất nhiều trong khi viết văn. Tác phẩm của ta có giá trị hay không là do ta co đủ tài liệu chính xác hỗ trợ những lập luận của ta hay không.

Việc liệt kê tài liệu tham khảo phải theo một tiêu chuẩn như sau:

Tên tác giả
Tên sách hay tên tờ báo
Mỗi chữ của tên sách hay tên tờ báo đều phải được viết hoa. Nếu viết tay, ta phải gạch dưới tên sách hay tên tờ báo; nếu đánh máy hay in, ta phải dùng loại chữ nghiêng.


Tựa của một bài văn hay bài thơ được trích trong một quyển sách hay tờ báo
Ta phải viết chữ hoa cho mỗi chữ của tựa bài băn hay bài thơ và phải để tựa bài này trong dấu ngoặc kép. Tiếp theo đó là tên sách hay tên tờ báo (trình bày giống như đã nói ở trên) mà bài văn hay bài thơ được trích dẫn.


Tên nhà xuắt bản, nơi xuất bản, và năm xuất bản. Nếu là tờ báo, ta phải biên thêm số báo, ngày, và nơi phát hành.

Sau đây là vài thí dụ về việc liệt kê các sách tham khảo:

Nếu tham khảo cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim để viết bài, ta phải ghi ở cuối bài viết như sau:

Sách Tham Khảo:
1. Lệ Thần Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục, Saigon, 1971.

Nếu tham khảo bài thơ "Chia Nhau" của nữ sĩ Ý Nga trong thi tập Góp Lửa, ta phải ghi ở cuối bài như sau:

Sách Tham Khảo:
1. Ý Nga, "Chia Nhau" Góp Lửa, Nhà Xuất Bản Anh Em, Oslo, Norway, 4/2000.
Nếu tham khảo bao nhiêu tác phẩm thì phải liệt kê bấy nhiêu tác phẩm.

Cuối mỗi bài văn, bài thơ, hay mỗi tác phẩm, ta cần ghi ngày tháng năm đã hoàn tất bài hay tác phẩm. Ðiều này rất quan trọng cho việc nghiên cứu văn học.

Khải Chính Phạm Kim Thư,

Canada, 2001

Hồn Việt 10

Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ

Huỳnh Ái Tông

Chim Việt Cành Nam







A. ĐẠI CƯƠNG

Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm (1) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.

Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ:

Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
Thời kỳ xây dựng năm 1651.
Thời kỳ phát triển từ năm 1867.
Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin).

Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch'nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch'nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.

Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học " Madre de Dieux" (Mẹ Đức Chúa Trời).

Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.



B. SỰ HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ

I. Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ

Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.

Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột: chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).

Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.

Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:

Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là: Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.

Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595)
Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.

Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn phiên âm.
Giai đoạn cấu tạo câu.

1.- Giai đoạn phiên âm.

Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

"Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian".

Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri (2), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là: Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?

Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng: "Muốn vào đạo Thiên chúa chăng?" Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau: "Muon bau dau Christiam chiam?" (Muốn vào đạo Christiang chăng?).

Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý (3). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong.

Phiên âm: Nghĩa
Anam: An Nam
Tunchim: Đông Kinh
Ainam: Hải Nam
Kemoi: Kẻ mọi
Cacciam: Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua: Xứ Hóa (Thuận Hóa)
Quamguya: Quảng Nghĩa
Quignin: Qui Nhơn
Dàdèn, lùt: Đã đến lúc
Dàdèn lùt: Đã đến lúc
Scin mocaij: Xin một cái
Chià: Trà
Cò: Có

.......

Onsaij: Ông sãi
Quanghia: Quảng Nghĩa
Nuoecman: Nước mặn
Da, an, nua: Đã ăn nữa,
Da, an, het: Đã ăn hết
Omgne: Ông nghè
Tuijciam, biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay: Ông Sãi đi lại
Bàncò: Bàn Cổ
Maa: Ma
Maqui, Macò: Ma quỉ, ma quái
Bũa: Vua
Chiuna: Chúa

Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau:

An nam: An Nam
Sinoa: Xứ Hóa
Usai: Ông Sãi
Ungne: Ông nghè
On trũ: Ông trùm
Ca cham: Ca chàm (kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman: Nước Mặn
Bafu: Bà phủ
Sai Tubin: Sãi Từ Bình (?)
Banco: Bàn Cổ
Oundelinh: Ông Đề Lĩnh
Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm:

Cacham: Kẻ chàm
Nuocman: Nước Mặn
Ongne, Ungué: Ông nghè
Bancô: Bàn Cổ
Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm:

Ainão: Hải Nam
Tunquim, Tunquin: Đông Kinh
Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:

Fayfó: Hải phố (Fayfo: Hội An)
Cacham: Kẻ chàm
Nuocman: Nước Mặn
Pullocambi: ?
Dinh cham: Dinh chàm
Quanghia: Quảng Nghĩa
Quinhin: Qui nhơn
Ranran: Ran ran (tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ: Bến đá
Bôdê: Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc: Ông Đề đốc
Unghe chieu: Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit: Nhứt là không, không là nhứt
Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm:

Digcham: Dinh Chàm
Nuocman: Nước Mặn
Quinhin: Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ: Xứ Hóa
Orancaya: ?
Quan: Quảng (Quảng Nam)
Xabin: Xá Bình ?
Bếndá: Bến đá
Bude: Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc: Ông đề đốc
Onghe Chieu: Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít: Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham: Dinh Chàm
Sinóa: Xứ Hóa
Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ YÙ gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:

Xán tí: Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu: Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí: Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan: Ngọc hoàng
Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa: Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ:

Sinoa: Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná: An nam
Sai: Sãi
Mía: Mía (nhà tạm trú)
Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm:

Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè:

Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué (Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)

2. Giai Đoạn Cấu Tạo Câu.

a. Sự đóng góp của Gasparo d'Amiral

Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo d'Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha - Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị "An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh"

Để hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral đối với Đắc Lộ.

Gasparo d'Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha.

Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).

Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.

Đến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645.

Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d'Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: "Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China" (Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau:

Tun kim: Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão: Đàng Trong
Đàng ngoày: Đàng Ngoài
Đàng tlên: Đàng trên
Oũ nghe: Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién: nhà ti, nhà hiến
nhà phũ: nhà phủ
nhà huyẹn: nhà huyện
oũ khơũ: Ông Khổng (Khổng Phu Tử)
Đức laõ: Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ: Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua: Vua
Tế Kì đạo: Tế kỳ đạo
Đức vương: Đức Vương
Chúa oũ: Chúa Ông (tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành: Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh (Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả: Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là: Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương: Thanh Đô Vương
Chúa triết: Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ: Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău: yêu nhau
oũ phô mả liêu: Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy: Đàng Ngoài
Quãng: Quảng
Tàm đàng: Tàm Đàng
Bên đoũ đa: Bên Đống Đa
tày: Tầy
lằng bôũ bàu: làng Bông Bầu
Cô bệt: Cô Bệt
Tri yếu: Tri yếu
kẻ hằii: kẻ hầu
ăn dương huyẹn: An Dương huyện
coũ thằn: công thành
Thíc ca: Thích Ca (Phật)
Phổ lô xã: Phổ lô xã
Sãy uãy: Sải vải
Hộy ăn xả: Hội An xã
huyẹn uịnh lạy: huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật: Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên: Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng: Kẻ Trang
Sấm phúc xả: Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả: Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc: Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi: Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc: Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm: Ông Phò mã Kiêm
bà: bà (?)
chúa bàng: chúa Bằng
thăn khê: Thanh Khê
hàng bè: hàng Bè
hàng bút: hàng Bút
cữa nam: cửa Nam
kẻ ăn lẵng: kẻ An lãng
hàng nấm: hàng nắm
đinh hàng: Đinh hàng
càii iền: Cầu Yên
hàng thuõc: hàng thuốc
oũ đô đốc hạ: Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm: Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương: Ông chưởng Hương
Thầi: Thầy
đức oũ hồe: Đức ông Huề
thuyèn thũỉ: thuyền thủy
Quãng liẹt xã: Quãng liệt xã
giỗ: giỗ
chặp: chạp
mă: ma
kẽ uạc: kẻ Vạc
cỗ: cỗ
oũ chưỡng quế: ông chưởng Quế
tình: tình
nhũộn: nhuận
tháng: tháng
cốt bõý: cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn: kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an: Nghệ An
Bố chính: Bố chính
thuặn hốe: Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon: huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương: huyện Thanh Chương
làng cầii: làng Cầu
nhà nga: nhà nga
đậii xá: đậu xá
vàng may: Vàng May
đức bà sang phú: đức bà sang phú
oũ bà phủ: ông bà phủ
kẽ mộc: kẻ Mộc
kẽ bàng: kẻ Bàng
an nam: An Nam

Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: "Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China" (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây:

Sãy: Sãi
đức: đức
Chúa thanh đô: Chúa Thanh Đô
thầy: thầy
định: định
nhin: Nhơn (tên)
Nghệ an: Nghệ an
lạy: lạy
tri: Tri (tên)
bùi: Bùi (tên)
Quang: Quảng (tên)
tháng: Thắng (tên)
Coũ thàn: Công Thành
Sướng: Sướng (tên)
đàng ngoài: Đàng Ngoài
già: Già (tên)
Vó: Vó (tên)
nân: Nân (tên)
lồ: Lồ (tên)
đôủ thành: Đông thành (tên)
Kẻ chợ: Kẻ Chợ (tên)

Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ:

Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)

Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay:

Các âm ghi
â ă hàng nấm
ê e huyẹn, hién
y i thầi
o õ bõy
âu ăii hầu


Các phụ âm ghi
ng ũ oũ
ch yc bạyc


Các dấu giọng ghi
? ~ cữa nam, phũ
~ ? Sấm phú xả,
Nghỹa ăn xả


Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay:

a (nghệ an) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê (nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)


Có đủ dấu giọng:

Dấu
không dấu nam, đô
' Thíc ca
` thầi phù thũi
? chúa cả
~ giỗ
. vĩnh tộ

Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định... Do đó chúng ta thấy Gasparo d'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d'Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.


b. Sự đóng góp của Linh mục Đắc Lộ.

Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo của Đắc Lộ.

Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.

Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Đông Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Đà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật.

Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Đàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang (Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Đắc Lộ trở về Áo Môn.

Từ năm 1630 đến năm 1640, Đắc Lộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam.

Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Đắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.

Giai đoạn trước, giáo sĩ Đắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.

Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: "Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636" (Lịch sử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.

Các chữ phiên âm trong quyển một

Tung: Đông
kin: kinh
Annam: An Nam
Ai nam: Hải Nam
Chúacanh: Chúa Canh
Che ce: kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng: Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu: Chúa ông
Chúa thanh đô: Chúa Thanh Đô
(Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan: vương
min: minh
bát min: bất minh
thuam: thuận
uan: văn
uu: vũ
gna ti: nhà ti
gna hien: nhà hiến
Cai phu: cai phủ
Cai huyen: cai huyện
Bua ; vua
den: đền
sin do: sinh đồ
huan cong: hương cống
tin si: tiến sĩ
tam iau: tam giáo
dạu nhu: đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả: Thích ca
Sai: Sãi
sai ca: Sãi cả
lautu: Lão tử
Giô: giỗ
Cu hồn: Cô hồn
ba hon: ba hồn
Chin via: Chín vía
dum: Đồng (tên)

Các chữ phiên âm trong quyển hai

Cửa bang: Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt: Phật
bụt: Bụt
dang: Đàng
ciiia oũ: chúa ông
ciiia ban uuan: chúa Bằng vương
ciii sai: chúa Sãi
ciii canh: chúa canh
thinh hoa: Thanh Hóa
thai: thầy
sai vai: Sãi Vãi
Che vich: kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no: Kẻ Nộ
Gne an: Nghệ An
bochin: bố chính
Rum: Rum
kiemthuong: Kiêm Thượng
Phuchen: Phục chân
cà: Cà
cã: cả
cá: cá
tlẽ: trẻ
tle: tre

Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: "Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos" (Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm:

Ounghebo, Oũnghebo: Ông Nghè Bộ
Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy: Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.

Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề: "Alexandre Rhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium" (Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Đắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau:

Ciam: Chàm
Ranran: Ran ran
Ké han: Kẻ Hàn
On ghe bo: Ông nghè Bộ
ke cham: kẻ Chàm
halam: Hà Lan
Cai tlam, Caitlam: Cát Lâm
ben da: Bến đá
Qui nhin: Qui Nhơn
Nam binh: Nam Bình
Bao bom: Bầu vom
Quan Ghia: Quảng Nghĩa
Nuoc man: Nước Mặn
bau beo: Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia: Quảng Nghĩa
Baubom: Bầu Vom
bochinh: Bố chính
Oũ ghe bo: Ông nghè Bộ

Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d'Amiral và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau:

Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âm có tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ, thử so sánh:
Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 Tài liệu Đắc Lộ 1636
Thanh đô vương thanh đô
Nhà ti gna ti
Nhà hién gna hien
Nghệ ăn, nghệ an Gne an
Bố chính bochin
Gasparo d'Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Đắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.

Ngay trong cách phiên âm của Đắc Lộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d'Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.

Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d'Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy.

Từ năm 1638-1645 Gasparo d'Amiral ở tại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Đắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d'Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho ta thấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral về lãnh vực tiếng Việt.

Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.


c. Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa

Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử đến truyền giáo ở Đàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.

Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã cho biết: "Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y." (4)


d. Sự đóng góp của người Việt

Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tin như vậy.

Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn năm 1645.

Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: "Cirra formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam" (Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:

"Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi - tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũ nghi bậi - tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghi bậi - tôy là Phi-lip cũ nghi bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi - tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ nghi bậi " (nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói: nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy - Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi líp cũng nghĩ vậy - Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩ vậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).

Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế tiếp.

Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.


II. Thời Kỳ Xây Dựng

1. Khái Quát.

Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d'Amiral khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum - Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.

Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng không tìm thấy chúng.

Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển: Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.

Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.

Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm "Truyện An-nam Đàng ngoài chí Đàng trão". Ông mất tại Lisbonne năm 1832.

Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum - Lusitanum của Gasparo d'Amiral và Dictionarium Lusitanium - Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phải in nữa.

Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển "Cathéchismus" (Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.


2. Thời kỳ soạn thảo quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - LaTinh

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa.

Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Theo vết chân của Đắc Lộ, chúng ta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha - An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trong rồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng 12 năm 1645.

Còn Linh mục Gasparo d'Amiral sau thời gian ở Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha.

Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môn trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Đắc Lộ, Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định giao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Manilia hay Tây Ban Nha.

Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. YÙ ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.

Vậy thời điểm Đắc Lộ soạn quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầy được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển Cathéchismus.


3. Nội Dung Quyển Dictionarium Annamaticum et Latinum

Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành ba phần chính:

Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio (tức là phần Ngữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn) gồm 31 trang, chia thành 8 chương:
Chương I .- De literis et syllabis quibus hase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)


Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.
Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)

Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.


Phần III. Index Latini sermonis.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.


Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây:

Công trình điển chế Việt ngữ của Đắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.

Dù sao thì công trình của Đắc Lộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và một ít giáo dân mà thôi.

Cho đến khi quyển "Chuyện Đời Xưa" của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa "... cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen." Điều nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.

Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt - Bồ - La của Đắc Lộ.

4. Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Khác.

a. Quyển Cathéchismus

Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus (Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuy chỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.

Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, không có lời tựa.

Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là "Phép giảng tám ngày", phân chia như sau:

Ngày thứ nhất: Đạo thánh đức Chúa Trời.
Ngày thứ hai: Đức Chúa Trời.
Ngày thứ ba: Đức thợ cả
Ngày thứ tư: Những đạo vạy
Ngày thứ năm: Một đức chúa Trời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
Ngày thứ sáu: Thầy thuốc cả.
Ngày thứ bảy: Con chiên lành.
Ngày thứ tám: Một bậc thang lên Thiên đàng.
Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư: Những đạo vạy:

Con cháu ông Adam.
Ông Noe và lụt cả
Tháp Babel
Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
Đạo bụt: giáo ngoài và giáo trong
Đạo lão
Đạo Nho: Việc thờ ông Khổng.
Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta
Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
Linh hồn ta chẳng hay chết.
Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.


b. Các Tài Liệu Viết Tay

Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.

Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻ Vó (Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini. (5)

Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.

Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ "Ao Pe Philipe Marino" (Gửi cho cha Philipe Marino - Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh "Pax Christi" (Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ. (6)

Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.

Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong "hai vở" (7), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tới cho Marini.

Còn về tập tài liệu (hai vở) (8), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có: Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổ giấy, nội dung gồm có: Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài và phần cuối cùng là tín ngưỡng.

Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng giống như ngày nay.

Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam... chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.


5. Thời kỳ của Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.

a. Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799)

Ông là Giám mục d'Adran, người Pháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Độ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium Annamatica - Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.


b. J. L. Tabert (1794-1840).

Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị: Dictionarium Annamatico - Latinum và Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d'Adran để soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.

Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ: trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi: trẩy) vận cản /~/ (oũ: ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.

Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân người Việt.

Phải đợi đến năm 1866, năm quyển "Chuyện Đời Xưa" của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.


C. KẾT LUẬN

Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trên dải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy được ghi lại trong Ca dao:

Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, (9)
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương vàngười Việt Nam.

Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.

Huỳnh Ái Tông
Memoiry Day 2000

Source: Hậu Giang


Chú thích:

(1). Chữ Nôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.

(2). Christofora Borri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.

(3). Borri, Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima Compania, Roma, 1631 (Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).

(4). Võ Long Tê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.

(5). Đỗ Quang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.

(6). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107

(7). Bento Thiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu-Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.

(8). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.

(9). Chữ Nhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán.

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Hồn Việt 9

Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam

1.Gió đâu bằng gió Tu Bông
Thương ai bằng
Thương cha, thương mẹ, thương chồng thương con

2.Hầm Hô có đá khổng lồ
Có hang Bảy Cử, có vò rượu tăm
Hầm Hô có nước trong xanh
Dưới sông cá lội trên cành chim reo

3.Hễ muốn ra con người tử tế
Phải thẳng ngay chớ để ai hờn

4.Làm ơn, ắt hẳn nên ơn
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ?

5.Hễ muốn ra con người tử tế,
Phải dễ dàng, chớ để ai hờn,

6.Làm ơn, ắt hẳn nên ơn,
Trời nào phụ kẻ có nhân bao giờ.

7.Hai nách những lông xồm xồm,
Chống yêu chồng bảo mối tơ hồng trời cho.
Đêm ngủ thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo lái đò cầm canh.
Ăn vụng bụng to tày thùng,
Chồng yêu chồng bảo cái giành đựng cơm.

8.Hầm Hô có cá hóa rồng
Bâng khuâng nhớ đến anh Hùng họ Mai
Vá trời lấp biển cò ai
Ngổn ngang đá chất lớp ngoài lớp trong

9.Hò ơ Buồn thay số kiếp con người
Cơm ăn không đủ... (ờ)
Hò ơ... Chớ cơm ăn không đủ nụ cười ốm nhom
Hò ơ... (chớ) Buồn thay số kiếp con người
Cơm ăn không đủ... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Chớ cơm ăn không đủ nụ cười ốm nhom

10.Kéo quân qua cửa Hùng Quan
Chim muôn giọng (tiếng) hót, hoa ngàn hương đưa
Nhớ ai ngơ ngẩn, ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai

11.Hòn Tàu, Hòn Kẽm, Hòn Vung
Ba hòn xúm lại đỡ vùng Quảng Nam
Non sông ai dựng ai làm
Dòng sông Sài Giang luợn khúc
Cù lao Chàm xanh um

12.Ăn lúc đói, nói lúc say

13.Đầu đường có một Dây Leo
Trông cậy Sậy nhỏ, ra điều mỉa mai,
Rằng: "Sao bé thấp lạ đời,
Trông em, anh cũng nực cười lắm thay"
Nghe lời, Sậy mới đáp ngay,
Rằng: "Mày không nghĩ phận mày xem sao,
Nhờ ai mày mới được cao?
Những như thân ấy, còn bao giờ mà?
Ta đây dù thấp là đà,
Tự ta ta mọc, chẳng nhờ cậy ai”

14.Đồn rằng anh học đã cao
Hỏi chị dâu rớt giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên.
Chị dâu mà rớt xuống giếng
Anh tìm miếng để cứu chị lên
Nắm đầu thì sợ tội trời
Hai tay nâng đỡ, sợ lời thế gian
Nhanh tay liền bắc cái thang
Kéo chị dâu một thuở kẻo chết oan con người

15.Đồng nào sâu bằng đồng Thi Phổ
Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ
Em thương anh chín đợi mười chờ
Mía kia lên ngọn trổ cờ đã lâu
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Ðức Thọ thong dong con người
Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc,
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Đèo cao, dốc ngược, đường dài
Anh còn qua được huống chi vài lạch sông

16.Đông Phù có sông Tô Lịch
Có con người lịch họa phượng, họa rồng
Yêu nhau chẳng quản đèo bòng
Cách mười sông, chín núi cũng một lòng theo anh.

17.Ơn cha nghĩa mẹ chưa đền
Như gà quẹt mỏ, chẳng nên con người

18.Ơn vua Thái Đức chí tình
Cù Mông vắng vẻ nhưng mình vẫn vui

19.Ai lên Hương Tích cảnh thiền
Dừng chân chiêm bái tôi khuyên đôi lời
Hãy tin tiềm lực con người
Đừng trông đừng đợi trên đời ngoài ta
Cũng đừng học thói kiêu sa
Khiêm cung cẩn trọng mới là chính tâm

20.Ai lên Hương Tích Chùa Tiên
Gặp cô sư Bác anh khuyên đôi lời
Đem thân làm kiếp con người (cái kiếp người)
Tu sao cho trọn nước đời mà tu

21.Bước chân lên Đèo Cả
Thấy mả ông Cao Biền
Có đôi chim hạc đang chuyền nhành mai

22.Bước chân lên đèo Cả
Trông sang Vạn Giả
Ngó xuống Tu Bông
Biết rằng cha mẹ đành không
Anh chờ, em đợi uổng công hai đàng
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.

23.Ba bà đi chợ, mua bốn quả dừa
Chia đi chia lại, đã trưa mất rồi.
May sao lại gặp một người
Ba bà ba quả, phần tôi quả này!

24.Ba chìm, bảy nổi, chín linh đinh
Bần tiện bất năng di

25.Bà già kén vợ cho con,
Kén ba năm tròn, được bóng thờ vua.
Thế gian tham của thời thua,
Của ăn thời hết, bóng thờ vua hãy còn.

26.Bà nằm bà có ngủ đâu,
Nó khênh nó bỏ vườn dâu bao giờ.
"Đêm năm canh bà nằm chả nhắp",
Nó khênh bà đi khắp mọi nơi.
"Đêm qua bà thức như chong”,
Nó khênh nó bỏ vườn dong bao giờ.

27.Bé thì con mẹ con cha, Lớn thì con vua con chúa

28.Cái răng cái tóc là gốc con người
Cái răng cái tóc là vóc con người

29.Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai mà về đó, thong dong con người

30.Cây da mô cao bằng cây da Bàn Lãnh
Đất mô thanh cảnh bằng đất Bảo An

31.Chỗ mô vui bằng chỗ Phố (Hội An), chỗ Hàn
Dưới sông tàu chạy, trên đàng ngựa đua

32.Cây me cũ, Bến Trầu xưa
Không nên tình nghĩa (thì) cũng đón đưa trọn niềm

33.Chưa quen đi lại cho quen
Chưa gần đi lại vài phen cho gần
Tuy rằng cửa đóng nhưng then không cài
Kẻ khinh người trọng vãng lai
Song le cũng chửa có ai bằng lòng
Chưa quen đi lại cho quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không cài (gài)
Kẻ khinh người trọng vãng lai
Song le cũng chẳng có ai bằng lòng.

34.Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chưng thầy mẹ nói ngang
Để cho đũa ngọc mâm vàng cách xa

35.Chầu rày xa phố Hội An
Xa chùa Ông Bốn, xa làng Minh Hương

36.Chẳng ngon cũng bánh lá dong
Tuy rằng xấu xí cũng dòng con quan
Chẳng ngon cũng bánh lá dong
Dù em có dại cũng dòng trâm anh
Chẳng thơm cũng thể hoa lài
Chẳng lịch cũng thể con người thượng lưu
Chẳng thơm cũng thể hoa mai
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh.
Chẳng thanh cũng thể hoa lài (mai)
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh
Chẳng chua cũng thể là chanh
Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây

37.Chỉ đâu mà buộc ngang Trời
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ
Chờ sung rụng
Chữ tình đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu trộm nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng hàng trăm sá gì (con người)

38.Chân đi mỏi lắm (chẳng tới) chân ơi
Chân đi chẳng tới, chân ngồi xuống đây
Ngồi buồn tính đốt ngón tay
Tính đi tính lại ngón này hơn trăm.
Tính tháng rồi lại tính năm
Tính tháng, tháng đoạn, tính năm , năm rồị
Đôi (Tình) ta biết thuở nào nguôi?
Chê thằng bụng bự, thằng gù lại ưng
Thằng sau nó đánh bằng tràng cối xay

39.Cheo leo núi đá xây thành
Đầu non mây trải, chen cành suối tuôn
Biển khơi, nước chẳng quên nguồn
Gành xa, sóng vỗ tiếng luồn trong hoa

40.Chiều chiều én lượn Truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều (3)
Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai

41.Chó giữ nhà, gà gáy sáng (gà gáy trống canh)
Con chim tìm tổ, con người tìm tông

42.Con gái là con người ta
Con dâu mới thiệt mẹ cha mua về

43.Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn

44.Dù ai xấu xí (có xấu) như ma
Tắm nước Ðồng Lãm cũng ra con người

45.Dù xa trước ngõ cũng xa,
Dù gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần

46.Gặp ba trò khiến hỏi ba trò
Đường lên trên bụng có đò hay không?
Cao sơn lưỡng nhũ ở trên
Tiểu khê ở dưới muốn lên phải có sào
Dang tay mở khóa động đào
Nhất can trực nhật đến ao phụng hoàng
Đường lên trên bụng muốn sang
Cần chi đò dọc, đò ngang tốn tiền
Gái Thanh Khiết chuyên nghề cải, giá
Trai Sung Tích chuyên nghề kén, dâu

Hồn Việt 8

Tiếp theo
51. Con kiến mày kiện củ khoai,
Mày chê tao khó lấy ai cho giầu.
Nhà tao chín đụn mười trâu,
Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân.

52. Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày?

54. Ầu ơ... Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng

55. Anh về bán ruộng cây da
Bán cặp trâu già, mới cưới đặng em


56.Hò ơ.. (chớ) Bớ này anh nó ơi
Số phận em giao phó cho trời xanh
Lấy anh em không lấy,
Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ
Vốn em cũng chẳng bơ thờ
Em đã hằng chọn trong lóng đục,
Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên
Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang,
Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm
Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm,
Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc
Em muốn lấy chú thợ mộc,
Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà
Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà,
Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt
Em muốn lấy người hạ bạc,
Nhưng lại sợ mang lưới mang chài
Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai,
Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới
Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi,
Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm
Bằng lấy anh đặt rượu làm men,
Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi
Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi,
Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn
Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn,
Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví
Em muốn lấy anh lái buôn thành thị,
Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng
Em muốn lấy anh thợ đóng thùng,
Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngổng
Em muốn lấy ông Hương ông Tổng,
Nhưng lại sợ việc trống việc gông
Em muốn lấy anh hàng gánh tay không,
Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy
Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy,
Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan
Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan,
Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi
Em muốn lấy anh hát bè hát bội,
Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng
Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng,
Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc...
Hò ơ.. (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra
Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn
So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà nho học
Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền
Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi... (ờ)
Hò ơ.. (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan

57. Hút sách là chuyện chẳng lành
Trâu bò vườn ruộng hoá thành khói mây

58. Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Cả ba việc ấy đều là khó thay.

59. Mười năm cắp sách theo thày
Năm thứ mười một vác cày theo trâu.

60. Bốn ông đập đất, một ông phất cờ,
Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân.
Đố con gì? (Con trâu)

61.Ai cũng gặt lúa đỏ đuôi
Chàng về mà đập, mà phơi kịp ngày
Ai mà giã gạo ba chày
Giã sao cho trắng, gửi ngay cho chàng
Sẵn tiền mua bạc mua vàng
Sẵn tiền sắm áo cho chàng trẩy kinh
Sáng trời chàng mới tập binh
Em ngồi vò võ, một mình em lo
Ruộng nương không ai cày cho
Trâu bò, gà, lợn em lo dường nào!
Ruộng người cày cấy xôn xao
Ruộng nhà cỏ mọc lên cao lồng ngồng
Người ta có vợ có chồng
Cỏ cao, mạ úa nhưng lòng vẫn vui
Nhà ta chỉ có em thôi
Ruộng cạn mạ úa em ngồi em lo

62.Ai ơi uống rượu thì say
Bỏ ruộng trâu cày bỏ giống ai gieo.

63.Anh đánh thì tôi chịu đòn
Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa
Anh đánh thì tôi xin thưa
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu
Ăn quen chừa được chẳng lâu
Lệ làng làng bắt mất trâu mặc làng

64. Ba vợ bảy tám nàng hầu
Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.

65.Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng

66.Anh em bất nghĩa chi khèo
Anh dữ như mèo tôi lại như trâu

67. Bé ăn trộm gà
Già ăn trộm trâu
Lâu nữa làm giặc

68. Cầm trâu cầm áo cầm khăn
Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em !

69. Cái bống mặc xống ngang chân
Lấy chồng Kẻ Chợ cho gần, xem voi
Trèo lên trái núi mà coi
Thấy ông quản tượng cõi voi đánh cồng
Túi vóc mà thêu chỉ hồng
Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi
Một mai chồng đỗ, vinh quy
Võng anh đi trước, em thì võng sau
Tàn quạt, hương án theo hầu
Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng!

70.Cái kiến mà kiện củ khoai
Mày chê tao khó, lấy ai cho giầu
Nhà tao chín đụn mười trâu
Lại thêm ao cá, bắc cầu rửa chân
Cầu nầy là cầu ái ân
Một trăm con gái rửa chân cầu nầy
Có rửa thì rửa chân tay
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh
Nhà anh có một cây chanh
Nó chửa ra nhành nó đã ra hoa
Nhà anh có một mụ già
Thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên
Ăn cỗ khì đòi ngồi trên
Mâm son bát sứ đem lên hầu bà.

71.Bong bóng thì chìm gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai
Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu
Hay sủa thì trâu, hay cày thì chó…
(hình như vẫn còn tiếp thì phải)

72.Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu
Tham vì ông lão tốt râu mà hiền
Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.
Chẳng tham nhà ngói ba tòa
Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.

73.Chồng dữ thì em mới rầu
Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng

74.Chùn đùi, thắt quản, ngắn đuôi
Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi (Chọn trâu)
75.Cao đầu thấp hậu thì tậu liền tay

76.Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày (Chọn trâu)

77.Chết lỗ chân trâu

78.Có ăn có chọi mới gọi là trâu

79.Có xa dịch lại cho gần
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi
Hay là nặng lắm anh ơi!
Để em bớt lại một môi rau cần.
Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn.
Dẫn trâu sợ họ máu hàn
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo mời dân mời làng.

80. Con cá rô thia ẩn bóng chân trâu
Một trăm quân tử tới câu cũng chẳng màng.

81.Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu

82.Con tằm nó ăn lá dâu
Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò

83.Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cặm bãi cứt trâu

84.Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé lớn thành trâu ai cày

85.Đàn đâu mà gảy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

86.Em thì canh cửi việc nhà
Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bõ công đèn sách lưu hương con nhà
Rước vinh quy về nhà bái tổ
Ngả trâu bò làm lễ tế vua
Họ hàng ăn uống say sưa
Hàng Tổng hàng Huyện mừng cho ông Nghè

87.Dưa gang một chạp thì trồng
Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo
Tháng hai đi tậu trâu bò
cày đất cho ải mạ mùa ta gieo

88.Được voi to trâu bò chẳng kể
Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa
Một lời đã trót nói ra
Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo

89.Em là con gái nhà giàu
Mẹ cha thách cưới ra màu sinh sao
Cưới em trăm tấm gấm đào
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng
Sắm xe tứ mã đem sang
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu
Ba trăm nón Nghệ đội đầu
Một người một cái quạt Tàu thật xinh
Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình
May chăn cho rộng ta mình đắp chung
Cưới em chín chĩnh mật ong
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng
Thách thế mới thỏa trong lòng
Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân

90.Gió nam ào ạt gốc cây nằm mát
Chẻ lạt đứt tay, đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc, đi học thầy đánh
Đi gánh đau vai, nằm dài nhịn đói

91. Vợ bé nghé con
Sẩy đàn tan nghé

92.Hòn đá cheo leo,
Con trâu trèo, con trâu trợn
Con ngựa trèo, con ngựa đổ.
Anh thương em lao khổ
Tận cổ chí kim,
Anh thương em khó kiếm khôn tìm.
Cây kim luồn qua sợi chỉ,
Sự bất đắc dĩ phu mới lìa thê,
Nên hay không nên, anh ở em về,
Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương.

93.Lạc đường nắm đuôi chó
Lạc ngõ nắm đuôi trâu

94.Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày
Ai ơi! bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?

95.Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ
Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng
Một huyền hai lái chẳng xong
Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào

96.Lộn con toán bán con trâu

97.Mật ngọt rớt xuống thau đồng
Những lời anh nói cho lòng em say
Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia!
Chàng ơi! chàng cho em ra
Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung.

98.Một rằng mình quyết lấy ta
Ta về bán cửa bán nhà mà đi
Ta về bán núi Ba Vì
Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu
Ta về bán hết ngựa trâu
Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung
Bán ba mươi sáu Thổ công
Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân
Bán từ giờ Ngọ giờ Dần
Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi
Ta về bán cả que cời
Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn
Ta về bán trống bán kèn
Có gì bán hết, lấy tiền cưới em

99.Nghé hành nghé hẹ
Có khôn theo mẹ
Có khéo theo đàn
Chớ có chạy quàng
Có ngày lạc mẹ
Việc nhẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ

100.Trăm năm cơ hội tình cờ,
Đàn cầm anh gãy, câu thơ anh đề.
Muốn cho thuận nẻo đi về,
Anh sang làm rể, em về làm dâu.
Số giàu lấy khổ cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên phải kiếp thì theo,
Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi.
Em ơi! chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo,
Ta đã yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua.

101.Trời mưa lâm râm
Cây trâm có trái
Con gái có duyên
Đồng tiền có lỗ
Bánh tổ thì ngon
Bánh dòn thì béo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái xuổng đắp bờ
Cái lờ đơm cá
Cái ná bắn chim
Cái kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt đầu
Cái cầu đi chợ
Có vợ đàn ông
Có chồng con gái
Cái trái mù u
Ông cu đi câu
Để trâu ăn lúa
Bắt được chặt đầu, chặt đầu đuôi
Còn hai con mắt đem nuôi mẹ già.

Hồn Việt 8

Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam
1. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu
Tham vì ông lão tốt râu mà hiền

2. Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi
Mua trâu xem vó, mua chó xem chân

3. Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cầy vợ cấy con trâu đi nằm

4. Đường về đêm tối canh thâu
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười

5. Thiệt tình hỏng phải ba hoa
hôm qua tui thấy con gà đá trâu.....

6. Gà đá trâu bao lâu mới thắng
trâu đá gà què cẳng con trâu

7. Ai nói chăn trâu là khổ??
Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu.

8. Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu.

9. Đêm qua kẻ trộm vào nhà,
Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu.
Nằm đây chớ chẳng ngủ đâu,
Thức mà giữ lấy con trâu con bò.
Nằm đây nào đã ngủ cho,
Thức mà giữ lấy con bò con trâu.

10. Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn cho béo trâu cày cho sâu.
Ở đời khôn khéo chi đâu,
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.

11. Chăn trâu chả biết mặt trâu
Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm.

12. Ầu ơ... Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng

13. Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…

14. Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia.
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa còn bông,
thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp

15. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao!

16. Trên trời có đám mây xanh (4)
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì ta lấy được nàng
Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu
Thanh Hóa cung đốn trầu cau
Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò
Phú Thọ quạt nước hỏa lò
Hải Dương rọc lá giã giò gói nem
Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền
Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi
An Giang gánh đá nung vôi
Thừ Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè
Quảng Bình Hà Tĩnh thuyền ghe
Đồng Nai Gia Dịnh chẻ tre bắc cầu
Anh mời khắp nước chư hầu
Nước Tây nước Tàu anh gởi thư sang
Nam Tào Bắc đẩu dọn đàng
Thiên Lôi La Sát hai hàng hai bên

17. Trời mưa trời gió đùng đùng
Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu
Gánh về trồng bí trồng bàu
Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.

18. Nam mô Bồ Tát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi súc phải cọc
Đi học thày đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài nhịn đói

19. Nước giữa dòng chê trong, chê đục
Vũng trâu đầm hì hục khen ngon

20. Đời vua Thái Tổ - Thái Tông
Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn.

21. Thất là mất
Tồn là còn
Tử là con
Tôn là cháu
Lục là sáu
Tam là ba
Gia là nhà
Quốc là nước
Tiền là trước
Hậu là sau
Ngưu là trâu
Mã là ngựa

22. Trai thì cày ruộng khiển trâu
Gái thì phải biết bổ cau têm trầu

23. Trăm năm còn có gì đâu
Miếng trầu liền với con trâu một vần

24. Trâu bò được ngày phá đỗ
Con cháu được ngày giỗ ông

25. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết

26. Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm

27. Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta con trước, con sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình

28. Của chua ai nấy cũng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng em đâu phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm

29. Dầu bông bưởi, dầu bông lài
Xức vô tới Tết còn hoài mùi cứt trâu

30. Dù ai buôn bán nơi đâu
Mồng Mười, tháng Tám chọi trâu thì về

31. Ðàn đâu mà gảy tai trâu
Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

32. Thương nhau vì nợ vì duyên
Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây

33. Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Về đâu trong đục mà chờ
Hoa thơm mất tuyết , nương nhờ vào đâu
Số em giàu, lấy khó cũng giàu
Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo
Phải duyên phải kiếp thì theo
Giàu ăn khó chịu, lo gì mà lo

34. Chẳng qua số phận long đong
Cột trâu, trâu đứt, cột tròng, tròng trôi.

35. Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày.
Ai ơi! bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng

36.Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười;
Con gà, be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào;
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò;
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi bắt diều hâu;
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.

37. Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
Vợ dại thì đẻ con khôn,
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm.

38. Trâu chậm thời anh bán đi,
Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao.

39. Trâu anh con cưỡi con dòng,
Có con đi trước lòng thòng theo sau.

40. Trâu anh con cưỡi con dòng,
Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn.

41. Trâu buộc thì ghét trâu ăn,
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.

42. Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia không vợ đời nào có con.

43. Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa,
Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.

44. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già.
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá bò dò làm sao?

45. Em như ngọn cỏ phất phơ
Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng

46. Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẳn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu

47. Ông Giăng mà lấy bà Sao,
Đến mai có cưới cho tao miếng giầu.
Có cưới thì cưới con trâu,
Chớ cưới con nghé nàng dâu không về.

48. Ông giẳng ông giăng,
Xuống chơi với tôi,
Có bầu có bạn,
Có ván cơm xôi,
Có nồi cơm nếp,
Có nệp bánh chưng,
Có lưng hũ rượu,
Có chiếu bám đu,
Thằng cu xí-xóa,
Bắt trai bỏ giỏ,
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá,
Có rá vo gạo,
Có gáo múc nước,
Có lược chải đầu,
Có trâu cày ruộng,
Có muống thả ao,
Ông sao trên trời.

49.Bước sang tháng sáu giá chân,
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy lồi lồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong.
Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gặm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Trời mưa cho mối bắt gà,
Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi.
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai.
Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc.
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi.
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú.
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu.
Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó.

50. Nam mô bồ tát,
Chẻ lạt đứt tay,
Đi cày trâu húc,
Đi xúc phải cọc,
Đi học thầy đánh,
Đi gánh đau vai,
Nằm dài nhịn đói.

Còn tiếp.....

Hồn Việt 7

Ca dao tục ngữ Việt Nam


1.Đến đây không hát thì hò,
Chẳng phải con cò ngóng cổ mà nghe.
Câu hò anh đựng ba vò,
Anh quên đậy nắp, nó bò sạch trơn.

2.Cái cò chết tối hôm qua
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong
Một đồng mua mớ rau răm
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò

3.Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đến chỗ cánh (Mẹ đi lặn lội) đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia lấy gậy đỡ cò (chống gậy lò dò)
Con lươn thụt xuống, con cò bay lên (thoát bay)

4.Cái cò là cái cò con
Mẹ nó yêu nó nó còn làm ngơ (lơ)
Con cò bay bổng bay bơ
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng
Đem về nàng nấu nàng rang
Nàng ăn có giẻo thì nàng lấy anh

5.Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đến chỗ cánh (Mẹ đi lặn lội) đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Đi vào bụi rậm xem cò bắt lươn
Con cò cắp cổ con lươn Con lươn cũng cố quấn quanh cổ cò
Hai con, cò kéo , lươn co
Con lươn tụt xuống con cò bay lên

6.Con cò ăn bên kia hói
Con cói ăn bên kia sông

7. Con cò đậu cọc bờ ao (cầu ao)
Phất phơ đôi dãi yếm đào gió bay

8. Con cò bị phải cơn mưa
Tối tăm mù mịt, ai đưa cò về
Cò về đến gốc cây đề
Hỏi: Đêm tăm tối, cò về làm chỉ
Cò đi thăm bác thăm dì
Thăm cha, thăm mẹ, sau thì thăm em!

9. Con cò bay bổng (bay lả) bay la
Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng.
Cha mẹ sinh đẻ tay không
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nuôi đời cò con.

10. Con cò lấp lé bụi tre
Sao cò lại muốn lăm le vợ người
Vào đây ta hát đôi lời
Để cho cò hiểu sự đời , ở ăn
Sự đời cò lấy làm răn
Để cho cò khỏi băn khoăn sự đời

11. Con cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng
Chú tôi hay tửu hay tăm
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa
Ngày thì khấn những ngày mưa
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh

12. Con cò lặn lội bờ ao
Ăn sung sung chát ăn đào chua
Ngày ngày ra đứng cổng chùa
Trông ra Hà Nội xem vua đúc tiền
Ruộng tư điền không ai cày cấy
Liệu cô mình ở vậy được chăng
Mười hai cửa bể anh cũng đóng đăng
Cửa nào lắm cá anh quăng lưới (chài) vào

13. Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng

14. Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xuân mòn mỏi má hồng phôi pha.
Em về giục mẹ cùng cha
Chợ trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh.
Con gà hắn mổ hột kê
Con ngựa ăn cỏ,con rồng có không?
Núi Đồng Dương, dê chạy giáp vòng
Ngó về long hải, con cá nằm ngất ngư
Em về em lạy mẫu từ rồi đi theo anh.
Con diều nó đậu bông trang
Con voi ăn núi Tượng, con rùa bò Đá Quy.
Ngó lên cây lồ ô, con quạ ngủ li bì
Ngó về sông rạch, con tôm đi bạc hà
Em về thưa mẹ cùng cha
Qua đà đối đặng, em theo ta cho rồi.

15. Con cò là con cò con
Mẹ đi xúc tép để con coi nhà
Mẹ đi lặn lội đường xa
Chân mẹ la đà đạp phải khúc lươn
Ông kia có chiếc thuyền lườn
Chớ vào bụi rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Đi vào bụi rậm xem cò bắt lươn

16. Con cò là con cò vàng
Muốn đi hát đúm sợ làng cười chê
Ai cười lời kẻ thôn quê
Mà cò ngần ngại đứng lề đường quan
Hay cò vui câu xẩm xoan
Thì cò bay đến hân hoan cùng người

17. Con cò mắc rò (mắc dò) mà chết
Con quạ mua (Con diều xúc) nếp làm chay
Con cu đánh trống ba ngày
Chào mào đội mũ làm tầy đọc văn
Láng giềng chạy đến lăng xăng
Mua ba thước vải đội khăn cho cò

18. Con cò mắc rò (mắc dò) mà chết
Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
Cu cu đánh trống bằng tay
Chào mào đội mũ làm thầy đọc văn
Chiền chiện vừa khóc vừa lăn
Một bầy se sẻ bịt khăn cho cò

19. Con cò mắc rò (mắc dò) mà chết
Con diều xúc nếp làm chay
Tu hú đánh trống ba ngày
Tu hú nó dậy nó bày mâm ra
Con cuốc nó kêu oa oa
Mẹ nó đi chợ đường xa chưa về

20. Con cò mà đậu cành tre
Thằng Tây bắn súng cò què một chân
Hôm sau ra chợ Ðồng Xuân
Chú khách mới hỏi: sao chân cò què ?
Cò rằng: cò đứng bụi tre
Thằng Tây bắn súng, cò què một chân !

21. Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tối có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con

22. Con cò mà mổ con trai
U ơi, U lấy vợ hai cho thầy

23. . Con cò trắng bạc như vôi
Cô kia muốn lấy chú tôi thì về
Chú tôi tôi chẳng mắng chẳng chê
Thím tôi móc mắt, lôi me,à moi gan

24. Con cò trắng bạch như vôi
Ai muốn làm bé cha (chú) tôi thì về
Mẹ (Thím) tôi chẳng đánh chẳng chê
Mài dao cho sắc, móc mề mà xem

25. Làm người phải biết cương thường
Xem trong ngũ đẳng quân vương đứng đầu
Thờ cha kính mẹ trước sau
Anh em hòa thuận mới hầu làm nên
Vợ chồng đạo nghĩa cho bền
Bạn bè chung thủyy, dưới trên đàng hoàng.

26. Làm sui (suôi) một nhà làm gia cả họ
Gà cỏ cũng trơ mỏ về rừng
Anh em trên kính dưới nhường
Là nhà có phúc mọi đường yên vui

27. Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên
Bạc Liêu chữ đặt bình yên dân rày
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung
Anh em Mười Chức công khùng
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan…

28. Mậu Thìn vốn thiệt năm nay
Một ngàn năm tám, tiếng rày nổi vang
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung
Anh em Mười Chức công khùng
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan…

29. Một mẹ già bằng ba đứa ở
Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau

30. Người dưng có ngãi thì đãi người dưng
Anh em bất nghĩa thì đừng anh em.

31. Nhà anh có một thước ao
Anh trồng rau ngổ anh rào chung quanh.
Yêu anh em sẽ lấy anh
Nhỡ khi đói khát nấu canh ăn cùng.

32. Nhác trông nhà ngói năm gian
Thấy chàng lịch sự khôn ngoan có tài
Cho nên em chẳng lấy ai
Em quyết chờ đợi một vài ba đông.
Yêu anh em chẳng lấy chồng
Em dốc một lòng chờ đợi lấy anh.

33. Nhác trông tấm áo vá vai
Thầy mẹ anh vá hay tài vá nên?
Nhác trông tấm áo có duyên
Miệng cười hoa nở càng nhìn càng ưạ
Áo anh em mặc cũng vừa
Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta

34. Nhác trông thấy bóng anh đi
Thấy chân anh bước dạ thì em thương.
Nhác trông thấy bóng anh qua
Hình dung chải chuốt thật là xinh saọ
Em mong thấy mặt em chào
Vắng anh em những khát khao đêm ngày

35. Nhiều sương cỏ mới bạc đầu
Thương anh em chịu thảm sầu từ đây

36. Ở đây lắm kẻ gièm pha
Nói vào thì ít nói ra thì nhiềụ
Thương anh thương đủ mọi điều
Gió quanh em sẽ liệu chiều em chẹ
Ai nói chi chàng chớ có nghe
Ông Tơ bà Nguyệt đã xe ta rồi
Dù ai khuyên đứng dỗ ngồi
Thì chàng cũng cứ đãi bôi qua lần.

37. Rủ nhau lên hiệu cầm khăn
Cầm được đồng bạc, để dành cưới em.
Ba hào thì để mua tem
Tư giấy mời khắp anh em xa gần.
Trăm năm kết ngãi Châu Trần
Nhớ ngày kết ngãi giao loan với mình.
Hai họ ăn uống linh đình
Sơn Tây, Hà Nội đồn mình lấy tạ

38. Thấy anh em cũng muốn chào
Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình.
Đấy giắt dao đây gươm kề nách
Thuận nhân tình cắt vách sang chơi

39. Thấy anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo anh bán em đi
Lấy anh em biết ăn gì
Lộc sắn thì chát, lộc si thì già
Lấy anh không cửa không nhà
Không cha không mẹ biết là cậy ai

40. Thấy anh em những mơ màng
Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôị
Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó trao lời khó trao

41. Thấy hoa anh muốn lại gần
Thấy cá dưới nước muốn dừng chân xem
Thấy anh em muốn hỏi xem
Hỏi em đã định tơ duyên khi nào

42. Thế thường gần mực thì đen
Anh em bằng hữu phải nên chọn người

43. Theo anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo anh bán em đi
Nghèo thời bán cột bán nhà
Nào ai có bán vợ theo bao giờ

44. Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người
Những người lêu lổng chơi bời
Cùng là lười biếng ta thời tránh xa